Trong
chuyến về Hội An-Đà Nẵng mùa Hè năm nay, tôi đã có dịp trở lại Vĩnh Điện - nay
được gọi là thị trấn Vĩnh Điện và thuộc huyện Điện Bàn, Quảng Nam, nhưng không
còn nhận ra nơi gia đình đã sinh sống gần 50 năm trước. Vĩnh Điện là một thị-trấn
nhỏ nằm trên quốc lộ số Một và ngay trên ngã ba đường đi Hội An, Tam Kỳ và Đà Nẵng.
Thời đó cậu bé tôi suốt ngày chơi quanh quẩn nơi nhà ga xe lửa hay nghịch với bạn
ở ven sông, một nhánh sông Thu Bồn chảy về cửa Đà Nẵng, hay nhìn nước xoáy mạnh
nơi chân cầu Vĩnh Điện, nơi tôi chắc chắn đã có lần mơ đi xa và chưa thể biết
những dịp ngồi lại bên cầu mới là quí. Vì thế mà một ông cậu từ Hà Nội vào thăm
đã gọi tôi là "xếp ga"!
Nhà
ga của cậu bé tôi hình như không xa nhà ga của nhà thơ Luân Hoán:
"...
bỗng dời ra tuốt xóm Ga
sờ
thăm đường sắt thử xa cỡ nào
chân
trời trong giấc chiêm bao
phủi
tay tạm gởi mộng vào hư không ..."
(LH
-Những Năm Đầu Với Đất Sông Hàn).
Vì
dù gì thì gần năm mươi năm của nhiều cuộc đổi đời và nước chảy qua cầu của ấu
thời và nhiều nơi khác cùng với chiến-tranh, hòa bình, đã xóa đi nhiều nếp cũ,
đời xưa. Ký vãng tôi nay không còn sức để có thể nhận ra dấu vết của khu phố
ngày xưa, của căn nhà rất nhỏ bé thời đó. Một trở về để nhận chân thời gian và
tuổi đời không ai giữ lại được!
Không
xa đó là bến xe Vĩnh Điện nơi nhộn nhịp xe và người nhất là tiếng nói tiếng rao
đậm đặc âm hưởng địa phương, âm hưởng trước đó đã làm tôi phải lắng nghe mới hiểu
trong một resort của Hội An, tất cả đã làm tôi có cảm tưởng chính mình mới là kẻ
xa lạ.
Trường
Nguyễn Duy Hiệu bên kia chân cầu và ở hướng đi Đà Nẵng không gợi cho tôi ấn
tương nào dù sân trường trồng nhiều phượng đỏ vốn vẫn gây xúc động nơi tôi. Phượng
vĩ nơi đây nở rộ vào đầu mùa Hè trong khung cảnh học đường Việt-Nam đã làm bước
đi tôi chậm lại như tiêng tiếc một mảnh đời thơ mộng nhất, rất khác với những
cây phượng ở phía Nam tiểu bang Floriđa nước Mỹ; một bên cảnh vật có hồn và cả
một quá khứ, còn một bên trơ trơ vô tình!
Vĩnh
Điện ấu thời của tôi mới đây tôi được biết cũng là nơi nhà thơ Luân Hoán thuở
vào đời (thơ và tình!) đã từng đến để tìm bóng dáng người thơ Nguyễn Thị Liên
Phượng, một bút hiệu của Nguyễn Nho Sa Mạc, mà thời đầu anh cứ ngỡ là một người
nữ địa phương. Mới đây ông kể lại trong Dựa Hơi Bè Bạn do nhà Nhân Ảnh ở Toronto
xuất bản (2006) - nhà thơ dựa hơi cả bóng ... người trong thơ! Khoảng năm 1962
, Luân Hoán đã:
"Dắt
xe qua cầu gió
Vào
thị trấn buồn buồn
Mắt
hỏi từng cửa phố
Trong
dáng hoa qua đường
Thị
trấn nửa cây số
Vốn
là quê ngoại tôi
Bỗng
nhiên đâm bỡ ngỡ
như
chưa từng ghé chơi
Đứng
giữa ngã ba bụi
ngó
xuống hướng Hội An
ngó
vào ngã Nam Phước
ngó
ra thành phố Hàn...".
Rời
Vĩnh Điện, trở về Hội An, nhiều khu phố ở đây hình như không thay đổi nhiều nếu
so với Sài-gòn và một và nơi khác. Với người du khách ngoại quốc có thể là lạ lẫm,
nhưng với người trở về thì cuộc sống thực tế đã che mất những nét đẹp của phố cổ
được ghi lại trong ký ức văn thơ và hội họa. Qua Ngũ Hành Sơn về Đà Nẵng, trường
trung học Phan Chu Trinh vẫn còn đó nhưng cùng hoàn cảnh với các trường học nổi
tiếng khác của miền Nam cũ, lớp sơn (hay vôi) được tô lên nhưng người từng có kỷ
niệm nhìn vào sẽ đau lòng vì như phải chiêm ngưỡng một hoa hậu tuổi về chiều phải
cần đến son phấn trét lên nhưng vẫn không thể che được vết loang lỗ tàn phá của
thời gian!
Những
ngày ở đó, tôi đã nghĩ đến những nhà thơ văn Thái Tú Hạp, Luân Hoán, Nguyễn Nam
An, Hoàng Lộc, Lưu Nguyễn, Phan Xuân Sinh, Đặng Tiến, ... mà tôi quen biết sau
này ở hải ngoại, những người từng sinh sống và khởi đầu sáng tác nơi đây. Nhưng
nơi đây không còn dấu vết của họ, nếu có chăng là trong kỷ niệm của họ và những
người từng sống với họ.
Các
hiệu sách đều màu mè khoe nét thời thượng của kinh tế luật rừng và của phong
hóa mã hào nhoáng mà ruột rỗng không. Tôi cũng nghĩ đến những nhà văn thơ đã một
thời làm rạng danh địa phương, trong có hai nhà thơ vận yểu Nguyễn Nho Nhượng
và Nguyễn Nho Sa Mạc (1944-1964). Văn-nghệ sĩ mệnh vắn không phải ít: Phạm Hầu,
Nguyễn Nhược Pháp, Thạch Lam, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Vũ Trọng Phụng, ... thời tiền
chiến, rồi những Doãn Dân, Y Uyên, Mặc Tưởng, Song Linh, Vũ Hữu Định, ... bên
thơ văn và Dzũng Chinh bên nhạc, của thời chiến-tranh quốc-cộng; nhưng trường hợp
Nguyễn Nho Sa Mạc để lại nơi tôi nhiều ấn tượng nhất.
Lúc
mới biết yêu văn thơ, tức khi đã chớm biết mùi tình ái, sau vài lần thất bát đã
cứ ngâm thơ J. Leiba "Người đẹp vẫn thường hay chết yểu, / Thi nhân đầu bạc
sớm hơn ai!" như để tìm an ủi, dù người tình chưa ... chết, mà cứ cho là vậy
cho đỡ buồn! Thật vậy, thơ Nguyễn Nho Sa-Mạc với tôi là thơ của thời học trò, của
những mối tình đầu đời có thể gọi là trong trắng, đầy đam mê và cả thơ dại -
đam mê và thơ dại thật và hơn cả thơ tình của những Đinh Hùng, Nguyên Sa, Phạm
Thiên Thư, v.v. mà cũng khác với cái đam mê không dứt của Nguyễn Tất Nhiên một
thời. Một thứ tình-yêu thân-phận pha chút triết-lý bi đát, phi lý! Nhà thơ bước
vào đời và tình-yêu trước, do đó đã để lại "gia tài tình ái" cho đàn
em (và hậu nhân).
Thơ
Nguyễn Nho Sa-mạc vẽ đậm đặc chân dung những cậu học trò trung học bắt đầu biết
yêu, biết "ta đứng dựa lũ cột đèn châm thuốc / Rất vô tư nhìn năm tháng
thay màu", cái nhìn đầu đời đó là cái nhìn mở, đầy tin yêu và hy vọng.
Trong Mùa Xuân Của Em, người trẻ tuổi Nguyễn Nho Sa-Mạc đối mặt với tình yêu hoặc
nói với người tình mà như độc thoại cho cuộc tình:
Rồi
xuân sang em nhìn mưa để khóc
kỷ
niệm chong đèn thức suốt đêm qua
ngón
tay nhỏ lần đan sầu cô độc
tưởng
chừng như tuổi trẻ bỏ đi xa
Thứ
bảy chiều em rong hè phố cũ
con
đường xưa hoa đỏ nở rộn ràng
giòng
sông đó bỗng nhiên buồn vô cớ
bơ
vơ tìm thương cát sõi cồn hoang
Em
đứng dậy xem mây chiều xuống thấp
trời
tháng giêng mưa lạnh thấm vai chùng
sân
ga nhỏ con tàu không dừng lại
đôi
sao buồn ngủ giữa không trung
Gió
thì mệt, mùa xuân đang cúi mặt
hàng
dừa xanh xõa tóc đứng âm thầm
em
muốn nói trên vòng tròn con mắt
hờn
mùa xuân với khuôn mặt sa sầm
Rồi
xuân đến sau lưng nhiều bão mộng
buổi
em về xanh rừng tóc cao nguyên
đồi
chiều xa biểu hiện nét mi hiền
tay
trắng muốt nuôi linh hồn thảo mộc
Em
ngồi khóc, mùa xuân nhăn mặt khóc
môi
em buồn cho thời tiết buồn theo
con
sông nhỏ bỗng vô cùng cô độc
trôi
về xuân với một ít rong bèo..."
Có
đứng ở những con sông, bờ biển, cồn hoang, sân ga, sân trường và nhìn bóng các
học sinh nam nữ đi bên nhau và đứng ở đây mới 'thấy' được những hình ảnh thi ca
mà Nguyễn Nho Sa-Mạc đưa lên giấy! Và cũng mùa Xuân, nhưng đã nhuốm buồn thương
không lâu sau đó, với bài Mùa Xuân 21 - còn có tựa Xuân Của Một Người, của anh;
phải chăng cũng là mùa Xuân cuối cùng của nhà thơ?
"Chiều
cuối năm trải buồn lên vỉa phố
trời
quê hương nhiều mây trắng sa mù
hai
mươi tuổi những ngày nuôi mộng đỏ
đã
xanh rồi cây trái mọc suy tư
Thân
với máu xin thắp làm sương khói
giữa
trần gian về tìm lại con người
vũng
tóc đó tháng ngày qua cỏ úa
lửa
của đời thiêu đời tuổi hai mươi
Con
mắt trũng hôn vào vòng đất ấm
cọng
rác khô da thịt cũng khô cằn
thiên
nhiên vẫn mặt-trời-trên-cao-mọc
người
tìm chi khu vườn cũ giá băng?
Tôi
gọi nhỏ tên người sa nước mắt
ở
trên đời vừa đúng hai mươi năm
máu
sẽ khô - xin tim này đừng rụng
giữa
hư vô phần mộ nhỏ yên nằm
Lũ
bạn tôi đứa còng lưng nằm ngủ
đứa
vùng lên trong số phận lưu đày
mỗi
trái tim hằn vết thương chia cắt
nỗi
nhục này cho con cháu mai sau
Tôi
thì vẫn tháng ngày xa phiêu lãng
giữa
lênh đênh tìm nắm một bàn tay
trời
tháng giêng những ngày sầu nổi gió
nhớ
Sàigòn thương Hà Nội mây bay "
Nơi
mùa Xuân mới này (1964!), ngươi trẻ đã nhiều ưu tư nhân thế; thân thể, máu nồng
đã bắt đầu tàn phai, khô khan. Tình-yêu như rời xa, phải thì thầm gọi tên người!
Phải chăng chiến-tranh tàn bạo đã đến với những người trẻ những tâm hồn phẫn nộ?
Rồi
mùa Hạ đến nhưng trong lòng nhà thơ không có cùng vị trí trân trọng như mùa Thu
và Xuân. Mùa Hè với Nguyễn Nho Sa-Mạc là của trống vắng vì là mùa nghĩ, bóng
dáng thân thương phải lùi vào tâm tưởng và ký ức:
"Sao
không phải là thu cho trời bớt nắng
Mây
lưng trời từng buổi sáng đong đưa
dòng
sông xanh đến vô cùng yên lặng
Em
trở về qua lối nhỏ ngày xưa
Sao
không phải là đông để anh rời thành phố
Buổi
trưa buổi chiều nối với sân ga
chuyến
tàu đi chôn sâu kỷ niệm
Những
hoang tàn đổ vỡ tuổi niên hoa
Sao
không phải là xuân cho trời cứ đẹp
Cho
loài người ca tụng mãi thiên nhiên
để
muôn triệu mảnh hồn còn đóng khép
Theo
chúng mình ôm hát khúc thiêng liêng...
Là
mùa hạ nắng khô rồi anh ơi
Hai
người yêu nhau không tìm ra chỗ hẹn
lạc
tinh cầu theo gió mát mây trôi...
Hai
đứa nhìn nhau không biết cười hay thẹn"
(Mùa
Hạ)
Không
gian là Vĩnh Điện, Hội An hay Đà Nẵng, thì cũng là trong một chu vi ngắn. Ngoài
sân trường, hè phố, ... thì sân ga thường xuyên hiện diện, sân ga của bản tình
ca trước mặt hay sân ga của tâm tưởng! Tình yêu ở Nguyễn Nho Sa-Mạc rõ là không
phơn phớt, nơi trần bì, mà đã thẩm thấu trong hình hài và tâm tưởng.
Một
trong những bài thơ tình đầu tiên của Nguyễn Nho Sa-Mạc là bài Vàng Lạnh ký
Nguyễn Thị Liên Phượng, đăng trên tạp-chí Mai năm 1962, một tạp-chí cung cách
thủ cựu, khép kín và nổi tiếng với những bài nghị luận khô khan về triết lý và
văn-hóa. Bài thơ đến với giới thưởng ngoạn thi ca lúc bấy giờ như một làn gió lạ.
Nội dung một thiên tình sử dù chỉ mới bắt đầu và lời thơ được chăm sóc, trau
chuốt một cách tuyệt vời. Cái nhất nửa là lời thơ của một nhân vật nữ, lãng mạn
nhưng dứt khoát trong tình-yêu - bên cạnh một Trần Thy Nhã Ca rất nữ tính mà
cũng rất hiện đại:
Chuyện
bữa ấy chiều nay em kể lể
màu
môi chôn kỷ niệm đã lâu rồi
mi
mắt đó ghi ân tình đổ vỡ
đời
nữ sinh vàng lạnh tháng ngày trôi
Em
đã khóc cả buổi chiều hôm trước
chúng
bạn đùa đã biết chuyện riêng tư
nỗi
yêu thương trong đời người con gái
bảo
em buồn nức nở trước trang thư
Mới
hôm nao người và em gặp gỡ
chiều
Quảng Nam còn khép kín chân em
người
bước đi qua con đường phố nhỏ
trời
mùa xuân em đứng đón bên thềm
Em
thầm bảo em thương người ấy lắm
thương
những chiều đại lộ bóng người sang
em
đứng đâý với môi hồng má thắm
nhìn
phố dài bỗng chốc biến rừng hoang
Chuyện
bữa ấy chỉều nay em kể lể
dáng
mi trầm nuối tiếc những ngày qua
thứ
bảy chiều chúng mình mừng sinh nhật
của
mối tình sớm nở sớm đi qua".
Lời
thơ như vậy làm sao không gây nức lòng mộng mơ cho nhiều chàng tuổi trẻ cho được!
Luân Hoán đã là một trong những 'chàng' đó và đã để lại dấu vết trong thi ca!
Bài
Vàng Lạnh xem như vừa mới đến với giới thưởng ngoạn thơ thì chỉ hai năm sau,
Vàng Lạnh 2 đã xuất hiện, lần này trên tạp-chí Văn Sài-Gòn (số 7, 4- 1964) là tờ
báo văn-học nghệ thuật 'IN' nhất thời đó! Câu chuyện tình vẫn đẹp như huyền thoại
ấy một lần nữa đến với người yêu thơ, dù mối tình năm nào nay đổ vỡ và bài thơ
mang cái không khí Chàm tan hoang tàn tạ nhưng lời thơ vẫn đầy hình ảnh và tình
ý:
"Đừng
nói nữa bài thơ vàng lạnh ấy
tình
ngày xưa xin trả lại cho người
kỷ
niệm buồn vui một thuở xa xuôi
chợt
đứng dậy đi lần vào thương nhớ
Anh
bỏ đi tìm tình yêu thành phố
những
khi buồn muốn nhắc lại tên em
đếm
những vì sao rơi rụng bên thềm
chợt
thức giấc thấy đời mình cô độc
Làm
con trai lần đầu yêu để khóc
tập
thư màu xanh nước mắt đau thương
xin
trả lai em thành phố với con đường
từng
buổi sáng buổi chiều ta qua đó
hai
mươi tuổi hôm nào yêu người em môi đỏ
tình
khai sinh bằng tiếng hát hoàng hôn
những
âm thanh não nuột chảy qua hồn
em
có thấy tình ra đi nhè nhe
Em
còn nhớ chuyện hôm nào kể lể
đôi
bàn tay chưa siết chặc làm cầu
khi
tâm hồn hai đứa chửa yêu nhau
con
nước chảy đi xa rồi cát lỡ
Em
có nghe muôn hành tinh đổ vỡ
những
mảnh buồn bốc cháy giữa không trung
tình
yêu hôm nay mệt mỏi vô cùng
đời
vàng lạnh xin em đừng nói nữa".
từ
trái, đynh hoàng sa, nguyễn nho sa mạc, luân hoán. giữa, phía sau, hà nguyên thạch
Phải
đọc hết bài mới thấm được cái hay của thơ Nguyễn Nho Sa-Mạc. Hai bài Vàng Lạnh
đó đã đi vào văn học sử dù tác-giả chúng đã sớm rời cõi đời ở đầu lứa tuổi đôi
mươi! Riêng tuổi học trò trung học của chúng tôi thích nhất bài Sinh Nhật đầy
hình ảnh, của một người trẻ mới vào đời nhưng vô tình đã có những lời thơ như
tiên đoán trước vận số nhà thơ:
"Bằng
đôi tay ôm kín nỗi buồn
Ta
đi trong trời đất hoàng hôn
Mà
nghe sữa mẹ chan hòa cháy
Máu
ở buồng tim cùng loạn cuồng
Ta
siết hình em trong tiếng hôn
Im
nghe da thịt và linh hồn
Giữa
không gian rộng ta vùng dậy
Cuộc
sống đi vòng quanh áo cơm
Ôi
nửa cuộc đời ta đảo điên
Đêm
nằm ru giấc ngủ cô miên
Hai
mươi tuổi trong hồ suy tưởng
Ngửa
mặt nhìn trời đi ngả nghiêng".
Rõ
lời và ý thơ chứa nét hiện sinh của thời 1963- 1964 cộng với tí nội dung phận
người của thơ Hoài Khanh, Phổ Đức một thời!
Thơ
Nguyễn Nho Sa-Mạc trong mấy năm ngắn ngủi đã liên tục xuất hiện trên các tạp
chí Mai, Văn, Văn Học, Bách Khoa,... ở thủ đô miền Nam. Sáng tác không nhiều
nhưng tất cả đều được trân trọng đón nhận, Nguyễn Nho Sa-Mạc đã là một trong những
hiện tượng của một hiện tượng lớn hơn: sự xuất hiện đa dạng và phong phú phẩm
lượng cửa những cây viết miền Trung.
Với
tôi, cuộc trở về với những kỷ niệm cá nhân đã là một hành trình trở về một thời
thi ca của miền Nam tự do và khai phóng!
Nguyễn
Vy Khanh
No comments:
Post a Comment