Chuyến tàu suốt đưa gần như tất cả sinh viên Đại học Sư phạm Huế, khóa Nguyễn Trãi, rời sân ga -
hôm đó là ngày 02
tháng tám năm 1960 - đi về các tỉnh phía nam. Người xuống ga
đầu tiên là ga Đà Nẵng, rồi con tàu lần lượt dừng
ở các ga Trà Kiệu, Tam Kỳ, Quảng Ngải, Qui Nhơn, Nha Trang, Phan R ang, Phan Thiết để các sinh viên đến nhiệm sở theo Sự Vụ Lện h
của Bộ Giáo Dục.
Con tàu ngoằn ngoèo qua đèo Hải vân, núi xanh liền biển xanh
bất tận. Phong cảnh nơi đây thật quá hữu tình.
Tàu qua ga Lăng Cô chơ vơ giữa núi rừng, rồi chui qua 9 cái hầm tất cả để vào Đà
nẵng. Một số ít bạn vào trình diện ông Hiệu t rưởng trường Phan Chu
Trinh. Rồi tàu tiếp tục xuôi nam, đến ga Trà Kiệu, di tích một thời liệt oanh của dân tộc Chàm,
một số bạn xuống tàu về nhiệm sởTrần Quý Cáp, Hội An. Phần tôi còn tiếp tục cuộc hành trình qua những trảng cát dài nắng cháy của huyện T hăng Bình rồi Tam Kỳ.
Bất giác bài hát “Quê Nghèo“ của Phạm Duy:
“Làng tôi không xa kinh kỳ sang chói
Có những cánh đồng cát dài, có lũy tre còm tả tơi…”
thoát ra khỏi
cổ họng phát lên thành tiếng nho nhỏ…
Ga Tam Kỳ đang ở vào giấc trưa nắng nóng v à vắng vẻ (12 giờ), tôi bước xuống sân ga, một nỗi buồn man mác xâm
chiếm tâm hồn!
Tôi là đứa con gái mang tính con trai, thích phiêu lưu lang bạt
đó đây. Tuy không xuất thân từ Hoàng tộc nhưng Ông N ội tôi là ngự y của vua Khải Định. Ba tôi từng mở trườ ng tư thục Xuân
Miêu ở Huế. Ống đứng ra làm Hiệu trưởng nên người ta hay gọi
Ông
là Ông Đốc, có lẽ do chữ “Directeur” cũa Pháp nói trại ra.
Mẹ tôi là giáo viên, để tôn xưng chức nghiệp của Bà, đến nỗi
chính Ông Ngoại tôi cũng không kêu con gái bằng tên của
con mà gọi bằng “Chị Trợ”!
Bởi xuất thân trong một gia đình như thế nên tôi luôn có cảm
giác như bị “nhốt trong lồng”!. Con chim mà bị nhốt trong lồng,
dù cho có là lồng sơn son thếp vàng… nó cũng không mê bằng
được dang đôi cánh trên khung trời rộn g nữa là tôi, một đứa con
gái thích đi
đây đi đó!.
Ngày Đại học Huế làm lễ Tốt nghiệp cho sinh viên, tôi “hiên
ngang” nhẩm trong đầu “Bộ Giáo Dục có đưa đi đâu cũng tốt,
sẵn sàng đi thôi!”. Nếu được day ở Huế sẽ cố gắng vừa dạy vừa
đi học lên để lấy văn bằng cử nhân. Nhưng nếu Bộ đưa tôi đến
bất
cứ nơi nào cũng tốt vì đâu cũng là quê hương Việt Nam tôi.
Tôi muốn được đi, được sống ở nhiều nơi để tìm hiểu, để khám phá các vùng, miền của đất nước tôi.
Đã nghĩ trước trong đầu như thế nhưng khi đối diệ n
thực tế
phong cảnh Tam Kỳ tôi xót xa quá! Đó là cảm giác rất thật, hiện lên trong trí khi tôi đến ga Tam Kỳ. Sự xót xa đó buộc tôi tìm hiểu lịch sử “cận đại” của Tam Kỳ. Được biết Tam Kỳ thuộc
Liên
khu 5 của Việt Minh
trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đó là một vùng thương mãi, kỹ nghệ không có gì. Những sản phẩm quí như trầm, gổ, quế… không được xuất cảng bán cho
nước ngoài để cho đời sống của dân được nâng cao lên. Việt Minh nắm chính quyền không cần làm cho kinh tế phát triển, mà
mục đích tối hậu là đ ánh đuổi thực dân Pháp. Nhân lực,vật lực được dồn hết cho chiến tranh chống Pháp, vì thế mà dân nghèo xơ,
nghèo xác đến đau lòng!...
May thay cái nghèo đó lại un đúc tình cảm quá mặn nồng của con dân Tam Kỳ phải sống xa xứ như những cựu học sinh Trần
Cao Vân ở Charlotte mà tôi đã chứng kiến tình bằng hữu, tình
đồng hương, tình đồng
đội quá sâu đậm qua cái chết của một bạn
xuất thân từ trường Trung học Trần Cao Vân: TÔN THẠNH
ÙI.!
Tôi sống ở Huế, ở Saigòn từng đi đám tang nhiều bà con, bạn bè và cả đưa đám hai ông Thầy dạy năm đệ Nhất Quốc Học. Thực tình, tự vấn lương tâm, tôi thua xa các học trò cũ của tôi ở Charlotte như
vợ chồng
Cẩm-Anh, vợ chồng
Duy-Khôi,
vợ chồng Nguyện-Thiệu, vợ chồng Thủy
Tưởng, Lê Thị
Hồng và cả
Võ Công Minh từ tiểu bang Georgia xa xôi.
Tất cả đã đem công sức và tình
cảm
“ủ” cho bạn Tôn
Thạnh Ùi
có một “cuộc ra đi” với đầy đủ lễ nghi của đạo, của đời. Các bạn cũng “ủ” cho Hoa, vợ Ùi bao tình thương, san sẻ nỗi đau của Hoa. Họ thay nhau thăm viếng, tới lui ăn uống, trò chuyện… với Ùi cho Ùi đỡ cô quạnh trong những ngày Ùi lâm bệnh nặng ở nhà một mình trong khi Hoa phải đi làm.
Khi biết
Ùi
“yếu” rồi, mọi người xông ra gánh vác công việc cho Hoa! Từ viết tiểu sử của Ùi, viết điếu văn, lo lễ phủ cờ Vàng
cho cựu Sĩ Quan Tôn Thạnh Ùi…
Có thể nói rất khó tìm ra nhóm bạn bè nào mà tình bằn g
hữu gắn bó chặt chẻ như nhóm cựu học sinh Trần
Cao Vân
ở Charlotte!
Nếu dân Việt mình mà có rất rất nhiều người yêu thương gắn
bó như trên thì có thể
dân mình cũng không đến nỗi lầm than khốn khổ như bây giờ. Bởi vì họ biết yêu thương nhau, chia
ngọt xẻ bùi cho nhau, san sẻ đắng cay, bất hạnh của nhau, chứ không
vô cảm, không “mackeno” (mặc kệ nó).
Tôi xa trường Trần Cao Vân đã hơn nửa thế kỷ, nhưng những kỷ
niệm về Trần Cao Vân còn in đậm nét trong trí.
Tôi nhớ những nam nữ đồng nghiệp cùng chun g mái trường
Trần Cao Vân. Nay có người đã
giã từ cõi tạm, cõi hồng trần như thầy Hiệu Trưởng Tôn Thất Dương Kỳ, như anh Nguyễn Kia,
anh Lương Thúc
Trình.
Có người bám tru quê nghèo miền Trung
như anh Quân, Quỳnh, Hàm ở Huế, chị Huỳnh Thị Hội còn ở Đà
Nẵng , anh Phúc còn ở
Tam
Kỳ, anh Vàng ở Quảng Ngải. Một số lớn lập nghiệp ở Sài Gòn như cô Mận, cô Kiều Nữ, thầy Phương, thầy Đa, thầy Lục, thầy Xếp, thầy Chương. Một số xuôi thêm
xa như thầy Đàng về Vũng Tàu, thầy Hàn về Đồng Nai, thầy Liên Trình về tới Cai Lậy và có lẽ xa nhất là thầy Mai ở tận Cần Thơ.
Một số cựu học sinh
Trần Cao Vân
Tam Kỳ ở Sài Gòn thuộc
loại “có máu mặt” như Minh Lựu,
Thu Nguyệt, Hương Nguyên
(Biên Hòa), Nguyễn Ngọc Diện, Lê Nguyên Đại, dược sĩ Huỳnh
Tự Yên (Huỳnh Văn Nhiệm) và còn rất nhiều người
nữa mà tôi
không được biết, các em là những người đã vượt lên, làm
được
chút gì cho gia đình, cho quê nghèo,
đem lại tiếng thơm cho cả
trường Trần Ca o
Vân.
Tôi nhớ Vườn Lài của Ông Bà Mai Hạc, nơi trồng lài lấy hoa
ướp trà, làm cho sản phẩm Trà Mai Hạc chẳng những được tồn tại mà còn phát triển mạnh sau bao cơn “thịnh
nộ” mà toàn miền Nam phải gánh chịu! Tôi nhớ khoai lang Tiên Đỏa tím. Màu tím
- nếu là của một tà áo thì lãng mạn quá - nhưng đây là màu tím
của một củ khoai lang. Màu tím chung thủy, màu tím êm
đềm, màu
tím
mê hoặc đôi mắt tôi!
Tôi nhớ dĩa cơm gà Tam Kỳ ở cửa hàng bà Luận, ngon hết
chê! Trong một lần các
thầy của Đại học Sư ph ạm Huế đưa sinh viên vào thực tập ở trường Trần Cao Vân, chúng tôi mời quý
thầy, quý bạn một bữa cơm gà trống thiến của Tam Kỳ. Ngon nhức răng!!! Dù quý thầy là những người của Huế, c ủa Sài Gòn,
từng đi Pháp du học, ăn bao nhiêu thức
ngon
vật lạ của các
vù
ng, miền mà
còn khen gà Tam Kỳ “ngon nhức răng”!
Một kỷ niệm với Tam Kỳ, Quảng Tín tôi muốn nhắc lại. Một
dịp gần Tết âm lịch, ông Tỉnh trưởng muốn ủy lạo các chiến sĩ ở
các tiền đồn xa xôi, heo hút. Ông chọn quận Hiệp Đức. Thầy
Hiệu trưởng Tôn Thất Dư ơng Kỳ nói tôi đi theo đoàn ủy lạo.
Một ý nghĩ thoáng qua: “Đi Hiệp Đức bằng đường bộ, lỡ Việt
cộng đặt mìn ?”, một ý nghĩ khác đáp lại ngay “Ông Tỉnh trưởng đi, ổng cũng lo an ninh cho cái mạng của ổng chứ, sợ gì! - Đi”. Thế là tôi tham gia vào đoàn ủy lạ o.
Đoàn xe chạy qua những con đường đất hẹp, hai bên toàn là rừng cây yên ắng, một cảm giác hơi rợn người: “Lỡ Việt cộng
trong rừng chui ra?”.
May
mắn, đoàn xe đi vô sự. Đến Hiệp Đức
mới thấy “thương” đời lính. Đồn đóng
trên một ngọn đồi chơ vơ,
chung quanh chỉ lè tè vài nếp nhà dân. Núi rừng âm u (hình như chạy qua đến Quế Sơn) vắng lặng, buồn tẻ. Lính chỉ có mưa
rừng, gió núi làm
bạn! Đời sống vật chất thiếu thốn nhiều thứ. Thương
lính còn thiếu thốn tình cảm. Đồn lính trơ
trụi toàn đàn ông,
không thấp thoáng một
bóng hồng nào!
Mới xuống xe thì cảm giác thương lính là thế. Nhưng khi đồn
trưởng - Một Thiếu úy trẻ măng - tập họp binh sĩ đón phái đoàn
ủy lạo và ông Tỉnh Trưởng thì phải nói khi đó sao tôi “sợ” lính đến thế?! Mọi con mắt của lính đổ dồn vào một tà áo dài duy nhất là tôi! Khi đó mới nghĩ “giận” ông Tỉnh trưởng. Sao ông không
đưa nữ nhân viên tòa Hành chánh hay
nữ
giáo viên Tiểu
học hay nữ y tá cùng đi với tôi cho tôi đỡ bối rối”!?
Hai mươi bốn tuổi đời, trong tà áo dài tha thướt lọt thỏm vào giữa rừng núi âm u, toàn là lính ! Một kỷ niệm “để đời”!
Ngô Thị Ấn
Fairfax, Virginia
No comments:
Post a Comment